Nước
ta đã có nghề in mộc bản từ thời Lý - Trần, nhưng còn thô sơ, chủ yếu
để khắc in các bộ kinh, sách truyền bá đạo Phật. Thời xa xưa đó, phải có
chiếu chỉ của nhà vua mới được khắc in kinh, sách. Đến thời Lê, Thám
hoa Lương Nhữ Hộc sau hai lần đi sứ phương Bắc (năm 1443 và năm 1449) đã
đem nghề in mộc bản học được ở Trung Quốc về dạy cho dân vùng Hồng Lục -
Liễu Chàng, quê ông, rồi từ đó, nghề in sách của nước ta phát triển và
truyền đi rộng khắp. Trước tiên, nghề in lan truyền lên kinh thành Thăng
Long. Tuy nhiên, với kỹ thuật khắc mộc bản thuở ban đầu ấy, kinh phí
cho một ấn bản rất cao, thêm nữa, việc in ấn do triều đình quản lý khá
nghiêm ngặt. Thời Lê (1427 - 1788), kinh sách đạo Phật, đạo Giáo cho đến
những pho sử, sách văn, thơ, nếu chưa được phép của triều đình thì
người dân không được khắc in. Trải nhiều thế kỷ, chỉ có hai chủ nhân
chính trong in ấn, một là các đền, chùa, quán (in ấn các bộ kinh sách,
ấn bản phục vụ tôn giáo, tín ngưỡng), hai là triều đình (chủ yếu in các
bộ sử). Do vậy, trong nhiều năm, kỹ nghệ in mộc không mấy phát triển.
Cho
đến triều Nguyễn, đặc biệt từ giữa thế kỷ XIX, nền kinh tế hàng hóa đã
hình thành và phát triển, cùng với nhu cầu về đời sống kinh tế - xã hội,
cũng xuất hiện những nhu cầu về đời sống tinh thần của dân chúng, nhất
là sách đọc và giáo trình học tập. Do vậy, nghề in cũng nở rộ, rồi trở
thành một nghề kinh doanh. Nhưng in ấn là một nghề kinh doanh khá đặc
thù, dễ chi phối tình cảm, tư tưởng con người, nhiều khi là phương tiện
truyền bá chính kiến xã hội. Vậy nên, từ đời Minh Mạng (1820 - 1840),
triều đình đã đặt ra cơ quan chuyên trách, ai muốn in ấn phải làm đơn
xin phép cơ quan ấy.

Tranh của Henri Oger
|
Những năm
cuối thế kỷ XIX, văn minh phương Tây du nhập vào nước ta rất nhanh. Đi
theo người Pháp thực dân, một số thành tựu của văn minh hiện đại cũng đã
lần đầu tiên đến nước ta, trong đó có phương pháp in bằng con chữ rời.
Và phương pháp này đã có ảnh hưởng lớn đến nghề in ấn ở nước ta. Dẫu
không còn vai trò là Kinh đô đất nước, nhưng Hà Nội vẫn giữ một vị trí
quan trọng trong kinh tế - xã hội của cả nước, nhất là nhịp độ phát
triển văn minh. Đầu thế kỷ XX, để đáp ứng nhu cầu in ấn của một kinh
thành với nền kinh tế hàng hóa đang nảy nở nhanh, ở Hà Nội xuất hiện
nhiều nhà in tư nhân, như: Liễu Văn đường, Phúc Văn đường, Tụ Văn đường,
Quảng Thịnh đường, Đồng Văn đường, Cẩm Văn đường…ở phố Hàng Gai; Áng
Hiên ở phố Hàng Đào; Long Đức ở phố Hàng Thiếc... Các cơ sở in ấn này có
vai trò gần như một nhà xuất bản. Họ in và bán nhiều loại sách công
chúng đang ưa chuộng, trong đó nhiều nhất là sách đáp ứng nhu cầu thi
cử.
Chế độ khoa cử nước ta đầu thế
kỷ XX có nhiều xáo trộn, nhưng chính thức thì tới năm Kỷ Mùi 1919 mới
kết thúc với khoa thi Hương cuối cùng. Gần 20 năm đầu thế kỷ XX, nhu cầu
sách phục vụ giới Nho sinh trong việc thi cử vẫn rất nhiều và có phần
đa dạng hơn trước. Bởi, nội dung thi cử có phần thay đổi, từ thơ phú,
kinh nghĩa chuyển sang văn sách, luận, còn thêm cả phần quốc ngữ nữa. Do
vậy, các tập văn sách, tập luận chọn lọc được in bán khá nhiều, có thể
kể những đầu sách bán rất chạy: Luận thể tân thức, do hiệu Cát Thành ở Hàng Gai in năm 1911; Hương thí văn tuyển, do Liễu Văn đường, Úc Văn đường in nhiều lần; Hội đình văn tuyển do Liễu Văn đường, Úc Văn đường và Đồng Văn đường nhiều lần tái bản. Rồi những bộ sách mang tính khai sáng, rất tiến bộ, như Nam quốc địa giáo khoa thư, Văn minh tân học sách… của Nhóm Đông Kinh Nghĩa thục; bộ sử Trung học Việt sử toát yếu (ván in còn lưu tại 22 Hàng Bè); bộ sách Danh gia quốc âm
do hiệu Long Đức in hai lần vào các năm 1902 và 1904... Ngoài ra, họ
còn in các loại sách về luật, toán. Có cá nhân bỏ tiền ra in ấn, như
trường hợp bà Trần Thị Trường ở phố Hàng Gai in một số cuốn kinh Phật...
Đặc biệt, đã xuất hiện những bộ sách cổ động duy tân, như sách của nhóm
Đông Kinh Nghĩa Thục. Theo học giả Trần Văn Giáp, trong Tìm hiểu kho sách Hán - Nôm, những sách đó ngoài phương thức in mộc bản, còn dùng cả lối in hoạt tự (sắp chữ rời).
Mảng
tác phẩm văn chương bằng chữ Nôm của nước ta ra đời từ thế kỷ XVII,
phát triển mạnh trong thế kỷ XVIII, XIX, đã được các cơ sở in tái bản
rất nhiều, đáng lưu ý còn có thêm nhiều tác phẩm mới cũng được in ấn để
đáp ứng nhu cầu đọc văn chương dân tộc của người dân. Cuốn Phạm Công - Cúc Hoa, từ năm 1907 - 1936 được in 15 lần, phát hành khắp cả nước. Kỷ lục là Truyện Kiều,
được in tới 32 lần, trong đó 25 lần in ghi rõ thời gian in và nhà tàng
bản (nhà cất giữ ván in). Nhiều truyện Nôm khác, cũ và mới, liên tục
được in ra, như Lưu Bình - Dương Lễ tân truyện, Lưu Nguyễn nhập
Thiên thai tân truyện, Quan âm chính bản tân truyện, Bạch Viên tân
truyện, Nam nữ đối ca… và cả những bản diễn trò như trò Hà Ô Lôi, trò Nghiêu Thuấn… cũng được in ấn phổ biến rộng rãi trong dân chúng.
Đời
sống chính trị xã hội nước ta giữa thế kỷ XIX có phong trào Cần Vương
phát triển khá sôi nổi. Các nhà Nho dùng văn thơ kêu gọi nhân dân chống
thực dân Pháp bị khủng bố mạnh. Sang đầu thế kỷ XX, chính quyền thực dân
vẫn cấm lưu hành “thơ văn chống đối”. Để đối phó, các nhà Nho dùng hình
thức “thơ văn giáng bút”, mượn lời của Phật, Tiên, Thánh kêu gọi dân
chúng chống thói hư tật xấu, đoàn kết chống cường quyền áp bức, nhằm
chấn hưng văn hóa Việt Nam. Lời Thánh lúc này không chỉ là những nhân
vật cổ xưa, mà là anh hùng trong lịch sử nước nhà. Vì vậy, nhiều ấn bản
của các cơ sở in ở Hà Nội đầu thế kỷ XX đã góp phần khơi gợi được tinh
thần dân tộc, kêu gọi nhân dân đứng lên chống thực dân, cứu nước cứu
nhà...
Có thể nói, chính tiến trình
phát triển nghề in đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên diện mạo văn
hiến của dân tộc Việt ta. Và nghề in cùng các cơ sở in ấn ở Hà Nội cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã có một vai trò lớn trong việc chấn hưng
văn hóa dân tộc, văn hóa Thăng Long - Hà Nội./.
• Theo Daibieunhandan