|
Chợ Đồng Xuân thời xưa - Ảnh: Tư
liệu |
Hà Nội như động tiên sa
Sáu giờ tắt hết đèn xa đèn gần
Vui nhất có chợ Đồng Xuân
Mùa nào thức nấy, xa gần xem mua
Cổng chợ có chị hàng dừa
Hàng cau, hàng quýt, hàng dưa, hàng hồng...
Ai ơi đứng lại mà trông
Hàng vóc, hàng nhiễu thong dong rườm rà...
"Xẩm chợ Đồng Xuân" liệt kê gần
như tất cả các mặt hàng bán trong chợ, không khí bán mua nhộn nhịp khiến người
nghe thích thú.
Giữa năm 1889, chính quyền thành
phố cho lấp đoạn sông Tô Lịch từ cửa sông Nhị Hà (sông Hồng) trở vào đến chân
tường thành cổ, tạo nên một bãi đất rộng hàng chục héc-ta để mở mang phố phường
và lập chợ vì hai chợ Bạch Mã, Cầu Đông trở nên chật chội. Chợ Đồng Xuân ban đầu
họp trên bãi đất trống mới lấp xung quanh có căng dây để tiện thu thuế và không
cản trở người đi lại. Năm 1890, công việc xây chợ có mái che bắt đầu. Trúng thầu
cung cấp phần khung sắt là nhà thầu Poinsard Veyret (Pháp), còn thi công là một
nhà thầu khác. Khung thép cao 19 mét và rộng 25 mét được đúc cầu kỳ làm cho chợ
trở thành độc nhất vô nhị ở Việt Nam. Tổng diện tích chợ khoảng 6.500 mét vuông,
tuy nhiên xung quanh chợ vẫn trống hoác và đến năm 1912, người ta mới cho xây
tường xung quanh.
Lúc đầu chợ Đồng Xuân chỉ họp
theo lối chợ phiên, hai ngày một phiên, nhưng về sau do nhu cầu phát triển kinh
tế thương mại, chợ họp theo ngày từ sáng đến tối. Khi cầu Long Biên hoàn thành
vào năm 1902 thì chợ Đồng Xuân trở thành tụ điểm buôn bán sầm uất không chỉ nổi
tiếng nhất Hà Nội mà còn nổi tiếng cả Bắc kỳ, thu hút được sự chú ý của giới
thương nhân nước ngoài, nhất là các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ấn Độ... thường
xuyên qua lại buôn bán. Cùng với hàng hóa do các vùng lân cận và nhiều tỉnh mang
đến thì hàng hóa nhập khẩu cũng phong phú. Không chỉ hàng tiêu dùng mà cả cam,
táo và nho tươi được các thương gia nhập từ Hồng Kông, San Francisco (Mỹ) về.
Đồng Xuân cũng là nơi đặt văn phòng thương mại của người Pháp, Hoa, Ấn, Việt. Do
nguồn hàng đa chủng loại nên Đồng Xuân không chỉ là chợ bán lẻ mà còn là đầu mối
phân phối cho các tỉnh ở hầu hết Bắc kỳ. Từ năm 1937 đến 1939, trước cửa chính
của chợ có một quầy bán công khai sách báo của Đảng Cộng sản Đông Dương do Phạm
Văn Hải trông coi.
Nhà nghèo, mới hơn 10 tuổi, cậu
bé Kông Tu Nghiệp người làng Phú Thượng (nay thuộc quận Tây Hồ) đã phải đến chợ
Đồng Xuân dọn hàng thuê cho một chủ sạp bán thực phẩm. Thấy cậu bé dễ thương nên
vợ chồng một người Pháp hay đến đây mua thực phẩm nhận về làm con nuôi. Bà người
Pháp này - rất giỏi nấu nướng các món ăn châu Âu và am hiểu ẩm thực Hà Nội - đã
dạy cho Nghiệp cách nấu các món ăn. Lớn lên, Nghiệp xin ra ở riêng và mở quán ăn
ở phố Hàng Gai, sau đó chuyển xuống phố Hàng Trống và trở nên nổi tiếng khi mở
nhà hàng Phú Gia (136 Hàng Trống).
|
Một nhóm hát xẩm - Ảnh: Tư liệu |
Đồng Xuân không chỉ là nơi xuất
xứ của phở bò - vốn trước đó là bún sáo trâu, sáo bò bán cho phu phen ngoài bến
sông vào ăn, mà còn là một trong những nơi đầu tiên bán bún thang. Khoảng năm
1915, cụ Lê Thị Tho khi đó 20 tuổi đã mở quán bán bún thang ở chợ và quán nổi
tiếng khắp Hà thành đến mức dân Tây "biết ăn rau muống, nằm võng ngâm Kiều"
thường xuyên tìm đến chợ thưởng thức. Sau đó cụ Tho truyền nghề lại cho con gái
là bà Đàm Thị Ẩm. Bà Ẩm nấu theo cách của mẹ truyền lại nên duy trì được sự nổi
tiếng cho đến khi nghỉ bán hàng.
Vì cổng chợ ngày càng có nhiều
nhóm hát xẩm nên một số nhóm đã tỏa đi các nơi trong thành phố. Khi đường tàu
điện phát triển đến Hà Đông thì có nhóm “cắm rễ” ở bến tàu bờ Hồ (nay là bãi
trông giữ ô tô phố Đinh Tiên Hoàng). Tuy nhiên nhiều nhóm vẫn bám trụ ở chợ Đồng
Xuân và các khu vực xung quanh. Do người hát hầu hết đều bị khiếm thị nên họ lấy
thơ lục bát có nội dung buồn hay éo le như: Lỡ bước sang ngang (Nguyễn Bính),
Anh Khóa hoặc các bài ca dao nói về thân phận người nghèo, do đó dễ gây rung
động cho người nghe. Sau một ngày mưu sinh vất vả, chiều xuống, vợ chồng con cái
những gia đình hát xẩm tay chiếu tay nhị dắt díu nhau về bãi An Dương (nay thuộc
quận Ba Đình). Những năm 1930, khu vực nói trên có tới mấy chục nhóm nên mới có
tên là "xóm xẩm".
Ngày 2.9.1945, nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa ra đời và việc đầu tiên mà nước cộng hòa non trẻ này tiến hành là
"diệt giặc đói và giặc dốt", đồng thời người ta vận động người hát xẩm, dù không
biết chữ, tham gia tuyên truyền bình dân học vụ. Xẩm Tiễu trừ giặc dốt ra đời
trong thời kỳ này đã lôi cuốn người mù chữ tham gia các lớp học. Sau Hiệp định
Genève lập lại hòa bình ở Đông Dương, các nhóm hát xẩm được mời tham gia sáng
tác và đến các vùng duyên hải miền Bắc hát tuyên truyền chống dụ dỗ di cư vào
Nam của địch. Có rất nhiều bài xẩm thời kỳ này nhưng cảm động hơn cả phải kể đến
bài Ở quê có tổ có tiên. Nhà văn Thanh Tịnh được giao phụ trách nhóm gồm 23 anh
chị em xẩm Hà Nội đến hát ở vùng Bùi Chu, Phát Diệm.
Ngày 19.12.1946, Bác Hồ ra lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hà Nội bước vào cuộc chiến đấu chống quân Pháp
xâm lược. Ngày 14.2.1946, một trận chiến ác liệt đã diễn ra ở chợ Đồng Xuân và
trong cuộc chiến không cân sức ấy có cả những thiếu niên đã anh dũng hy sinh.
Ngày 14.7.1994, trận hỏa hoạn đầu tiên từ khi có chợ xảy ra, do các họng nước
dành cho cứu hỏa khu vực này khô khốc nên xe cứu hỏa phải chạy xuống hồ Gươm lấy
nước. Chợ bị thiêu rụi hoàn toàn với tổng thiệt hại là 150 tỉ đồng (tương đương
14 triệu USD). Tháng 10.1995, UBND TP Hà Nội cho xây lại chợ như hiện nay.