I - TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
Sau gần 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục đổi
mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta đã đạt nhiều kết quả tích cực, góp
phần khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn lực đất đai phục vụ mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định
xã hội, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường... Hiệu quả quản
lý nhà nước về đất đai từng bước được tăng cường; chính sách, pháp luật
về đất đai ngày càng được hoàn thiện; các quyền của người sử dụng đất
được mở rộng và được Nhà nước bảo đảm; thị trường bất động sản, trong đó
có quyền sử dụng đất đã được hình thành và phát triển nhanh. Kết quả đó
khẳng định các quan điểm chỉ đạo, định hướng chính sách, pháp luật về
đất đai được xác định trong Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX cơ bản là
đúng đắn, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn
nhiều hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất, định giá đất, bồi
thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư, các thủ tục hành
chính về đất đai. Lợi ích của Nhà nước và người dân có đất bị thu hồi
chưa được bảo đảm tương xứng; nguồn lực về đất đai chưa được phát huy
đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội; việc sử dụng đất nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả thấp; tham nhũng,
tiêu cực trong lĩnh vực này còn lớn; thị trường bất động sản phát triển
không ổn định, thiếu lành mạnh, giao dịch "ngầm" còn khá phổ biến; tình
hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn biến phức tạp.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu
trên là: Đất đai có nguồn gốc rất đa dạng; chính sách đất đai thay đổi
qua nhiều thời kỳ; chủ trương, chính sách, pháp luật hiện hành về đất
đai còn một số nội dung chưa đủ rõ, chưa phù hợp; việc thể chế hoá còn
chậm, chưa thật đồng bộ. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đất
đai và các chính sách, pháp luật có liên quan chưa nghiêm. Công tác
tuyên truyền, giáo dục và quán triệt các chủ trương, chính sách, pháp
luật về đất đai còn kém hiệu quả; việc thực hiện công khai, minh bạch
trong quản lý đất đai chưa tốt. Ý thức chấp hành pháp luật về đất đai
của một bộ phận cán bộ và nhân dân còn hạn chế. Việc thanh tra, kiểm
tra, giám sát và xử lý các hành vi sai phạm chưa nghiêm. Hiệu lực, hiệu
quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn thấp. Tổ
chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai và các cơ quan
liên quan còn nhiều bất cập, hạn chế; một bộ phận còn lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để trục lợi, tham nhũng.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản
và hàng hoá đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu, được xác định cụ
thể phù hợp với từng loại đất, từng đối tượng và hình thức giao đất,
cho thuê đất. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua việc
quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cho phép chuyển mục đích sử
dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định
chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người
sử dụng đất tạo ra; trao quyền sử dụng đất và thu hồi đất để sử dụng vào
các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội theo quy định của pháp
luật.
- Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê
đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời
hạn và có các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất, tuỳ theo từng loại đất và nguồn gốc sử
dụng đất theo quy định của pháp luật. Người sử dụng đất có nghĩa vụ phải
đăng ký quyền sử dụng đất, sử dụng đất đúng mục đích, tuân thủ quy
hoạch, trả lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất, chấp hành
pháp luật về đất đai.
Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà
nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện các chính
sách, pháp luật về đất đai. Không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông
nghiệp đã giao cho hộ gia đình và cá nhân, nhưng Nhà nước có chính sách
phù hợp để đất nông nghiệp được người trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử
dụng với hiệu quả cao nhất.
- Đất đai được phân bổ hợp lý, sử dụng đúng mục đích,
tiết kiệm và có hiệu quả cao; bảo đảm lợi ích trước mắt và lâu dài, bảo
vệ môi trường sinh thái, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước;
nâng cao chất lượng và bảo vệ đất canh tác nông nghiệp, bảo đảm an ninh
lương thực quốc gia.
- Chính sách, pháp luật về đất đai phải góp phần ổn
định chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế; huy động tốt nhất nguồn lực từ
đất để phát triển đất nước; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, của
người sử dụng đất và của nhà đầu tư; bảo đảm cho thị trường bất động
sản, trong đó có quyền sử dụng đất, phát triển lành mạnh, ngăn chặn tình
trạng đầu cơ. Sử dụng có hiệu quả các công cụ về giá, thuế trong quản
lý đất đai nhằm khắc phục tình trạng lãng phí, tham nhũng, khiếu kiện.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất
đai; đẩy mạnh cải cách hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch trong
quản lý đất đai. Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ về đất
đai. Xây dựng hệ thống quản lý đất đai tiên tiến, ưu tiên đầu tư
xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông tin đất đai hiện đại.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và
toàn dân trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai. Bảo đảm sự
quản lý thống nhất của Nhà nước cấp Trung ương về đất đai, đồng thời
phân cấp phù hợp cho địa phương, có chế tài xử lý nghiêm các hành vi vi
phạm chính sách, pháp luật về đất đai. Kiên quyết lập lại trật tự trong
quản lý, sử dụng đất đai.
III- ĐỊNH HƯỚNG TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ ĐẤT ĐAI
Trong thời gian tới, để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới đất nước, trên cơ sở kế thừa những định hướng về
chính sách, pháp luật đất đai đã nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, cần tiếp tục đổi mới và hoàn
thiện chính sách, pháp luật về đất đai. Cụ thể như sau:
1- Quy hoạch sử dụng đất
Đổi mới, nâng cao tính liên kết, đồng bộ giữa quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng, quy hoạch ngành,
lĩnh vực khác có sử dụng đất theo hướng quy hoạch sử dụng đất phải tổng
hợp, cân đối, phân bổ hợp lý, sử dụng hiệu quả đất đai cho các ngành,
lĩnh vực, vùng lãnh thổ và đơn vị hành chính. Quy hoạch xây dựng và quy
hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất phải phù hợp với các chỉ tiêu, tiến
độ sử dụng đất được phân bổ trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Đổi mới kế hoạch sử dụng đất hằng năm theo hướng phải
thể hiện được nhu cầu sử dụng đất của các dự án đầu tư, của các ngành,
lĩnh vực, làm căn cứ để Nhà nước thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất,
chuyển mục đích sử dụng đất và xây dựng chính sách tài chính về đất đai.
Tăng cường kiểm tra, giám sát thống nhất từ Trung ương đến địa phương
trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Quản lý chặt chẽ
việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất có rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy hoạch sử dụng đất.
Có cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư xây dựng hạ
tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch đồng bộ với cơ sở hạ tầng
kinh tế, xã hội để khai thác tiềm năng đất đai tại các vùng trung du,
miền núi, ven biển, hạn chế tối đa việc sử dụng đất chuyên trồng lúa.
Từng bước thực hiện di dời các cơ sở sản xuất, các
đơn vị sự nghiệp tập trung đông người ra khỏi trung tâm thành phố, nhất
là các thành phố lớn, để khai thác, sử dụng đất có hiệu quả theo quy
định, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm ùn tắc giao thông.
2- Giao đất, cho thuê đất
Thu hẹp các đối tượng được giao đất và mở rộng đối
tượng được thuê đất. Việc giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án
phát triển kinh tế, xã hội được thực hiện chủ yếu thông qua đấu giá
quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Tiếp tục giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho hộ
gia đình, cá nhân sử dụng có thời hạn theo hướng kéo dài hơn quy định
hiện hành để khuyến khích nông dân gắn bó hơn với đất và yên tâm đầu tư
sản xuất. Đồng thời, mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông
nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể từng vùng, từng giai đoạn để tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ, tập trung đất đai, từng bước
hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn trong nông nghiệp. Sớm có
giải pháp đáp ứng nhu cầu đất sản xuất và việc làm cho bộ phận đồng bào
dân tộc thiểu số đang không có đất sản xuất.
Tập trung rà soát, xử lý dứt điểm những trường hợp
đất đã giao cho các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức đoàn
thể nhưng không sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích, trái pháp luật. Thực
hiện đấu giá quyền sử dụng đất khi sắp xếp lại trụ sở, cơ sở làm việc
thuộc sở hữu nhà nước để chuyển sang mục đích phát triển kinh tế.
Quy định cụ thể điều kiện để nhà đầu tư được giao
đất, cho thuê đất thực hiện dự án phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời
có chế tài đồng bộ, cụ thể để xử lý nghiêm, dứt điểm các trường hợp đã
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhưng sử dụng lãng phí, không đúng
mục đích, đầu cơ đất, chậm đưa đất vào sử dụng; không bồi thường về
đất, tài sản gắn liền với đất, giá trị đã đầu tư vào đất đối với các
trường hợp bị thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai.
3- Thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng
đất hằng năm đã được xét duyệt. Quy định rõ ràng và cụ thể hơn các
trường hợp Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào các mục
đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và
các dự án phát triển kinh tế, xã hội. Đối với các dự án sản xuất, kinh
doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì hộ gia đình, cá nhân đang sử
dụng được chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất với
nhà đầu tư để thực hiện dự án.
Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
thuộc trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp và có sự tham gia của cả
hệ thống chính trị. Kiện toàn, nâng cao năng lực của tổ chức có chức
năng phát triển quỹ đất để bảo đảm thực thi nhiệm vụ bồi thường giải
phóng mặt bằng, đấu giá quyền sử dụng đất.
Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất phải bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng
quy định của pháp luật. Người sử dụng đất được bồi thường theo mục đích
đất đang sử dụng hợp pháp. Tổ chức thực hiện có hiệu quả phương án đào
tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất và bảo đảm đời sống của
nhân dân ở khu vực có đất bị thu hồi. Nghiên cứu phương thức chi trả
tiền bồi thường, hỗ trợ để bảo đảm ổn định đời sống lâu dài cho người có
đất bị thu hồi.
Hoàn thiện cơ chế tạo quỹ đất, huy động các nguồn vốn
xây dựng các khu dân cư có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ để
bố trí chỗ ở mới cho người có đất bị thu hồi trước khi bồi thường, giải
tỏa. Khu dân cư được xây dựng phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán
của từng vùng, miền.
4- Đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận
Thực hiện đăng ký bắt buộc về quyền sử dụng đất. Nhà
nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cho người đã đăng ký đất đai theo
quy định của pháp luật, đồng thời có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn các
trường hợp giao dịch không đăng ký tại cơ quan nhà nước.
Tăng cường đầu tư nguồn lực để đo đạc, lập bản đồ, hồ
sơ địa chính, xây dựng cơ sở dữ liệu, cải cách thủ tục hành chính, đẩy
nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất đáp ứng nhu cầu của người sử dụng đất.
5- Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được giao quyền sử dụng đất
Quy định cụ thể điều kiện thực hiện các quyền của
người sử dụng đất, điều kiện nhà đầu tư được nhận quyền sử dụng đất để
thực hiện các dự án đầu tư. Khuyến khích việc cho thuê, góp vốn bằng
quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư.
6- Phát triển thị trường bất động sản
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển
lành mạnh, bền vững thị trường bất động sản. Tăng cường sự quản lý, điều
tiết của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Việc phát triển đô thị,
các dự án kinh doanh bất động sản phải phù hợp với quy hoạch, nhu cầu
của thị trường. Đẩy mạnh phát triển nhà ở, đặc biệt là nhà ở xã hội để
từng bước cải thiện điều kiện nhà ở của nhân dân.
Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội, chỉnh trang đô thị, cần quy hoạch cả phần diện tích
đất bên cạnh công trình kết cấu hạ tầng, vùng phụ cận để thu hồi đất,
tạo nguồn lực từ đất đai đầu tư cho các công trình này, hỗ trợ người có
đất bị thu hồi và tăng thu ngân sách nhà nước; đồng thời ưu tiên cho
người bị thu hồi đất ở được giao đất hoặc mua nhà trên diện tích đất đã
thu hồi mở rộng theo quy định của pháp luật.
Nhà nước chủ động điều tiết thị trường bằng quan hệ
cung - cầu; từng bước thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt trong
giao dịch bất động sản; rà soát lại các điều kiện lựa chọn nhà đầu tư,
bảo đảm nhà đầu tư phải có đủ năng lực thực hiện các dự án bất động sản.
7- Chính sách tài chính về đất đai
Nhà nước chủ động điều tiết thị trường bất động sản
thông qua việc đổi mới chính sách tài chính về đất đai, nhất là chính
sách thuế. Xây dựng cơ chế tăng cường, đa dạng hoá các nguồn vốn cho quỹ
phát triển đất, trong đó có việc trích từ tiền sử dụng đất, tiền thuê
đất nhằm tạo quỹ đất, tạo quỹ nhà tái định cư, quỹ nhà ở xã hội.
Rà soát các chính sách ưu đãi về thuế, bảo đảm công
bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện, chống thất thu thuế. Có chính
sách, mức thu hợp lý để nuôi dưỡng nguồn thu, khuyến khích sử dụng đất
tiết kiệm, hiệu quả. Nhà nước thực hiện chính sách thuế luỹ tiến đối với
các dự án đầu tư chậm hoặc bỏ hoang không đưa đất vào sử dụng đúng thời
hạn theo quy định của pháp luật.
Nghiên cứu ban hành thuế bất động sản (đối tượng chịu
thuế phải bao gồm cả đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất).
Người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đất bỏ hoang, đất đã
giao, đã cho thuê, nhưng chậm đưa vào sử dụng thì phải chịu mức thuế cao
hơn.
Thực hiện nghiêm Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp,
Luật Thuế thu nhập cá nhân, trong đó có thuế thu nhập từ chuyển quyền sử
dụng đất, không thực hiện việc thu thuế theo mức khoán.
8- Giá đất
Giá đất do Nhà nước quy định theo mục đích sử dụng
đất tại thời điểm định giá, bảo đảm nguyên tắc phù hợp với cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước.
Chính phủ quy định phương pháp định giá đất và khung
giá đất làm căn cứ để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành bảng giá đất. Bổ
sung quy định về điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất bảo đảm linh
hoạt, phù hợp với từng loại đất, các đối tượng sử dụng đất và các trường
hợp giao đất, cho thuê đất. Có cơ chế để xử lý chênh lệch giá đất tại
khu vực giáp ranh giữa các địa phương.
Kiện toàn cơ quan định giá đất của Nhà nước, nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác định giá đất và thẩm định giá đất.
Cơ quan tham mưu xây dựng giá đất và cơ quan thẩm định giá đất là hai
cơ quan độc lập; làm rõ trách nhiệm cơ quan giải quyết khiếu nại về giá
đất trong bồi thường giải phóng mặt bằng.
Làm tốt công tác theo dõi, cập nhật biến động giá đất
trên thị trường; từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất tới từng
thửa đất. Có cơ chế giám sát các cơ quan chức năng và tổ chức định giá
đất độc lập trong việc định giá đất. Khuyến khích phát triển các tổ chức
tư vấn định giá đất độc lập.
9- Cải cách hành chính
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành, địa
phương trong quản lý nhà nước về đất đai, bảo đảm quản lý thống nhất,
hiệu lực, hiệu quả và không chồng chéo.
Phân cấp việc quy định trình tự, thủ tục hành chính
về đất đai và gắn với trách nhiệm giải quyết của từng cấp chính quyền
địa phương cho phù hợp với chủ trương, yêu cầu cải cách thủ tục hành
chính và điều kiện cụ thể theo từng giai đoạn./.
• Theo VGP News
Rà soát, sửa đổi thẩm quyền thu hồi đất, giao đất,
cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
theo hướng vừa bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Trung ương, vừa phát
huy quyền chủ động của địa phương. Kiểm soát chặt chẽ việc cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ
sang đất phi nông nghiệp. Điều chỉnh thẩm quyền của cấp tỉnh, cấp huyện
cho phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính.
Tăng cường giám sát đội ngũ cán bộ, công chức thực
thi nhiệm vụ trong quản lý đất đai; xử lý nghiêm các trường hợp nhũng
nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp.
10- Thanh tra, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Các cơ quan có thẩm quyền phải tập trung giải quyết
kịp thời, dứt điểm các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai theo
đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, tố tụng hành chính, tố
tụng dân sự; công bố công khai kết quả giải quyết.
Củng cố, kiện toàn hệ thống thanh tra đất đai, toà án
các cấp; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ xét xử đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ. Quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ thanh tra viên, cán
bộ xét xử, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Rà soát,
sửa đổi, bổ sung chế tài xử lý đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm.
11- Nâng cao năng lực quản lý đất đai
Đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá chất lượng, tiềm
năng đất đai đáp ứng yêu cầu quản lý, sử dụng đất, ứng phó với biến đổi
khí hậu và phát triển bền vững. Phổ biến, giáo dục chính sách, pháp
luật đất đai cho cộng đồng, nhất là đối với đồng bào vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông
tin về đất đai và tài sản gắn liền với đất theo hướng hiện đại, công
khai, minh bạch, phục vụ đa mục tiêu; từng bước chuyển sang giao dịch
điện tử trong lĩnh vực đất đai. Phấn đấu đến năm 2020 cơ bản hoàn thành
việc xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực
cán bộ, công chức trong ngành quản lý đất đai; chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý
nhà nước về đất đai.
Tiếp tục củng cố, hoàn thiện tổ chức, cơ chế hoạt
động của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất theo mô hình dịch vụ công,
tập trung một cấp tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và có các
chi nhánh đặt tại các quận, huyện, khu vực đông dân cư để tạo thuận lợi
cho người dân; trước mắt thực hiện đối với khu vực đô thị.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách, tăng cường năng lực
của Tổ chức phát triển quỹ đất, từng bước chuyển Tổ chức phát triển quỹ
đất sang mô hình doanh nghiệp phát triển quỹ đất; phát triển đa dạng các
loại hình dịch vụ về đất đai.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Các cấp uỷ đảng, các đảng đoàn, ban cán sự đảng chỉ
đạo quán triệt sâu sắc nội dung của Nghị quyết và tăng cường lãnh đạo,
tạo sự thống nhất cả về nhận thức và hành động trong việc triển khai
thực hiện Nghị quyết.
- Trong năm 2013, Bộ Chính trị chỉ đạo tổng kết thực
hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 16-6-2003 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới
và phát triển nông, lâm trường quốc doanh để có phương án tổ chức lại
các nông, lâm trường, có cơ chế, chính sách để bảo đảm sử dụng đất lâm
nghiệp có hiệu quả kinh tế, xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung
Luật Đất đai năm 2003; đồng thời rà soát, hoàn thiện các đạo luật có
liên quan, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát
việc thực hiện trong phạm vi cả nước.
- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo sửa đổi, bổ sung
các văn bản dưới luật; chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng và tổ
chức thực hiện các chương trình, kế hoạch cụ thể thực hiện Nghị quyết
một cách đồng bộ, có hiệu quả. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá
tình hình thực hiện Nghị quyết và kịp thời điều chỉnh các chương trình,
kế hoạch, giải pháp cụ thể phù hợp với yêu cầu thực tế.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể đẩy mạnh
vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia và giám sát việc thực
hiện Nghị quyết.
- Các ban đảng ở Trung ương theo chức năng giúp Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo dõi, kiểm tra
việc thực hiện Nghị quyết. Văn phòng Trung ương Đảng phối hợp với các
cơ quan có liên quan theo dõi tình hình thực hiện Nghị quyết và định kỳ
báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương Đảng.