Ông tổ sân khấu là ai?
Cho đến bây giờ không người nào
trả lời được chắc chắn câu hỏi trên.
Theo NSND Đinh Bằng Phi thì
truyền thuyết được biết nhiều nhất là có một nhà vua không có con nên làm lễ cầu
xin Trời Phật ban phúc. Mỗi khi làm lễ, có một người giả làm thần vừa múa hát
vừa bay lên trời dâng sớ. Thế là hoàng hậu sinh hạ hai vị hoàng tử. Để tạ ơn
trời, hằng năm vua đều cho diễn lại lễ ấy, có con hát đàn ca vui vẻ, có người
đóng vai thần linh, và coi như một tiết mục biểu diễn trong cung.
 |
NSND Đinh Bằng Phi thắp
hương bàn thờ tổ - Ảnh: M.Châu |
Hai vị hoàng tử lớn lên rất mê ca
hát, suốt ngày quanh quẩn bên bội đình. Một hôm, mọi người tìm mãi không thấy
hai hoàng tử đâu, hóa ra họ lén vua cha vào trong buồng hát mà xem, đến nỗi quên
ăn quên ngủ, rồi kiệt sức, ôm nhau chết tự lúc nào. Từ đó, nghệ sĩ thường thấy
hai hoàng tử hiện về xem hát, bèn lập bàn thờ phụng, gọi là tổ. Cho nên, trong
đoàn hát có một trang thờ bằng gỗ sơn đỏ, đặt hai cốt gỗ nhỏ xíu như con búp bê
tượng trưng cho nhị vị hoàng tử. Mỗi khi có lớp diễn sinh con, nghệ sĩ hay đến
bàn thờ thỉnh một vị ra làm hài nhi. Hoàng tử trẻ tuổi, ham vui, chắc chắn sẽ
không phật lòng, mà còn thích diễn là đằng khác. Nhưng NSND Đinh Bằng Phi còn
nói: "Thờ cốt gỗ trẻ con cũng có ý nghĩa hướng về khán giả trẻ, vì chính họ sẽ
là người nuôi sân khấu tương lai".

|
NSND Phùng Há - Ảnh:
M.Châu
|
Cũng có truyền thuyết nói rằng tổ
sân khấu vốn xuất thân từ ăn mày, bởi nghề hát sống nhờ vào đồng tiền của khán
giả gom lại, có khác chi ăn mày khán giả. Cho nên nghệ sĩ làm từ thiện ở đâu thì
làm chứ không dám bố thí cho người ăn xin, vì như thế là phạm thượng với tổ.
Thật ra, sân khấu miền Nam xuất
phát điểm là hát bội, nên ông tổ chỉ được thờ trong các đoàn hát bội mà thôi.
Sau này, có thêm cải lương rồi kịch cũng lấy luôn ông tổ này làm tổ của mình.
"Tổ phạt", "tổ độ"...
Nghệ sĩ thờ tổ rất thành kính,
luôn nhớ những điều cấm kỵ, nếu không sẽ bị “tổ phạt”. Nhưng theo NSND Đinh Bằng
Phi thì những điều này vừa là "tâm linh" vừa là khoa học. Chẳng hạn, giờ hóa
trang không được giỡn hớt, nói tục trước bàn thờ tổ, có nghĩa là nghệ sĩ phải
yên tĩnh, tập trung cho vai diễn sắp tới, thì sẽ diễn tốt hơn. Cấm đụng tới
chiêng trống, bảo đó là một bộ phận trong cơ thể ông tổ, thật ra sợ lỡ tay làm
hư rồi không sửa kịp, thiếu nhạc cụ để diễn. Cấm trẻ con hoặc khán giả đem theo
trái thị, sợ ông tổ nghe mùi thơm chạy theo mà bỏ nghệ sĩ, không phù hộ. Sự thật
là mùi trái thị thơm nức mũi, nghệ sĩ hít vô liền bị phân tâm, quên vai mà thôi.
Cấm mang guốc vông, vì gỗ cây vông đẽo thành tượng tổ mà chà đạp dưới chân ắt có
tội. Thật ra, thời xưa nghệ sĩ thường đi chân đất, lúc diễn mới mang hia, hài,
nếu ai đi guốc cồm cộp sẽ làm mất yên tĩnh, tập trung cho người khác.
Và những câu chuyện truyền miệng trong giới không
biết có phải do tổ linh thiêng hay không... Gánh hát bội của nghệ sĩ Mười Vàng
nổi tiếng, có anh kép rất giỏi nhưng hay làm bể sô của ông bầu. Lần nọ, anh cũng
bỏ một sô, báo hại ông bầu Mười Vàng phải nhảy lên đóng thay. May mắn, ông là
nghệ sĩ kỳ cựu nên ai bỏ vai gì ông cũng đóng được hết. Lần này ông bực quá, rầy
anh kép nọ. Anh chối hoài, ông bảo anh phải thề. Anh thề: "Nếu tôi nói dối thì
cho bữa hát này tổ lấy hơi tôi đi!". Lát sau, anh ra sân khấu, mới dõng dạc hát
một câu tự nhiên tắt giọng liền. Anh gân cổ hát mãi cũng không được, hoảng hốt
tìm cách lui vào hậu trường bảo vợ đi mua con gà tạ lỗi với tổ. NSND Đinh Bằng
Phi lúc ấy đang là giảng viên của trường Quốc gia âm nhạc Sài Gòn, đi theo gánh
hát, chứng kiến đầu đuôi sự tình. Ông cười: "Chẳng biết tổ linh hay có thể giải
thích rằng do cả đêm anh ta thức đánh bài, sáng dậy mất giọng".
Còn một câu chuyện khác, có anh kép cải lương nổi
tiếng một thời, cát-sê ngang ngửa với nghệ sĩ Út Trà Ôn, Thành Được, lần nọ uống
rượu ngà ngà hát không nổi, liền tới trước bàn thờ tổ lè nhè: "Bộ muốn lấy giọng
tui hả?". Tự nhiên sau đó vài năm anh "xuống" luôn, và giã từ sân khấu khá sớm.
Đó là những chuyện "tổ phạt". Còn
chuyện "tổ độ" cũng không thiếu. Có nhiều đào kép ngoài đời không đẹp lắm nhưng
lên sân khấu lại sáng trưng và duyên dáng lạ kỳ. Chẳng hạn NSƯT Ngọc Giàu từng
nói thẳng là mình nhỏ con không sánh nổi nhan sắc cỡ Thanh Nga, Phượng Liên,
nhưng tổ thương nên nghề nghiệp vẫn thành công. Mỗi khi chị lên sân khấu, khán
giả chỉ thấy cái đẹp của nhân vật, và cho tới bây giờ vẫn yêu mến chị cuồng
nhiệt. Cô đào trẻ Tú Sương cũng hơi yếu về sắc vóc, nhưng trên sàn diễn lại là
ngôi sao cải lương. Có lẽ "tổ độ" vì cô làm nghề nghiêm túc, vượt mọi khó khăn
để sống chết với nghề. Vai nào Tú Sương đóng cũng thấy sự tập luyện kỹ lưỡng,
khán giả không yêu sao được.
Bên cạnh những vị
tổ truyền thuyết ấy còn có những vị tổ rất cụ thể mà giới làm nghề
gọi là hậu tổ. Đó là những vị tổ sư của các ngành nghề có liên quan
đến vai diễn của nghệ sĩ, gọi là thập nhị công nghệ. Thí dụ: nghề
may, nghề mộc, đi buôn, thợ rèn, y dược... Mỗi vai diễn, nghệ sĩ
phải lấy thực tế từ người thật nghề thật rồi mới cách điệu lên, nên
tri ân nghề đó. Hậu tổ còn bao gồm cả những nghệ sĩ lão thành có
công với sân khấu, hoặc những nhân tài xuất chúng, như ông Trương
Duy Toản, ông Năm Tú, ông Cao Văn Lầu, NSND Năm Châu, Ba Vân, Trần
Hữu Trang, Phùng Há, Năm Phỉ, Tư Đồ... |