Các dữ liệu này được lưu trữ bằng cả phương pháp
truyền thống và điện tử nhằm bảo đảm tính an toàn cho dữ liệu; đồng thời có thể
cập nhật liên tục các thông tin mới về sức sống của di sản tại các vùng văn hóa
với nội dung phong phú, từ lễ hội, nghề truyền thống đến nghệ thuật biểu diễn
Theo các nhà chuyên môn, nếu không có các tư liệu của Ngân hàng dữ liệu, thì
không thể xây dựng thành công các hồ sơ trình UNESCO. Ghi chép trung thực của
các nhà quay phim, chụp ảnh khiến người ta hiểu được thực trạng của những di sản
phi vật thể đó. Mặt khác, việc số hóa rất có tác dụng trong công tác quảng bá,
tuyên truyền.
Được biết, kho lưu trữ của Viện Âm nhạc VN hiện cũng đang lưu trữ được 26.000
làn điệu dân ca, dân nhạc của 53/54 dân tộc Việt. Đây là kết quả từ các chuyến
điền dã của nhiều thế hệ nghiên cứu.
Số hóa các dữ liệu không chỉ có ích cho việc kiểm
kê, lưu trữ các di sản văn hóa phi vật thể
mà còn giúp khôi phục nhiều giá trị có nguy cơ biến mất trở về với cộng đồng –
nơi sinh ra chúng
Với mục tiêu bảo tồn động, Viện Âm nhạc đang
triển khai phổ biến, giới thiệu, quảng bá, các loại hình độc đáo của âm nhạc
truyền thống VN đến công chúng trong và ngoài nước qua nhiều kênh khác nhau.
Theo PGS.TS Lê Văn Toàn – Viện trưởng Viện Âm nhạc VN, Viện sẽ xây dựng hệ thống
ngân hàng dữ liệu âm nhạc và nghệ thuật biểu diễn VN đồng thời cũng là ngân hàng
âm nhạc và nghệ thuật biểu diễn thế giới. Đây sẽ là điểm đến cho nhiều khách du
lịch muốn tìm hiểu về di sản âm nhạc VN.
Dự án “Số hóa các di sản văn hóa phi vật thể” được thực hiện từ 8 năm trước. Từ
đó đến nay, đã có nhiều cuộc điền dã dài ngày để ghi lại, phục dựng và số hóa
những thước phim tư liệu, những bản tổng phổ, phổ nhạc hay những lễ hội, điệu
múa, làn điệu hát trước nguy cơ bị biến mất.