|
Chuẩn bị đưa lá chè
tươi vào sao tại Cty chè Sông Cầu thuộc TCty Chè VN. |
Cung tăng, giá không giảm
Đất chè ở cả 9 huyện, thành, thị
tại tỉnh Thái Nguyên đang ở chính vụ. Như những năm trước, chè được giá vào đầu
vụ nhưng giảm dần khi nguồn cung bắt đầu tăng lên. Để tăng thêm thu nhập, nhiều
hộ dân đã tìm cách làm vụ chè muộn để bán được giá hơn khi nguồn cung không còn
dồi dào. Nhưng quy luật giá cả năm nay đã có những đổi khác. Giá chè khô thành
phẩm bình quân tại chợ đầu mối thu mua ở các vùng trồng chè hiện nay là 60 triệu
đồng/tấn, cao hơn 10 - 15 triệu đồng/tấn so với cùng kỳ năm trước. Đây cũng là
mức giá trung bình bà con nông dân bán ra vào đầu vụ.
Thay vì bán chè tươi, rất nhiều
hộ đã chuyển sang tự sao thành chè khô. Các DN sản xuất chè vì vậy phải tăng giá
thu mua lên mới mong có nguồn nguyên liệu sản xuất. Như Cty chè Sông Cầu thuộc
TCty Chè VN đã tăng giá thu mua chè tươi lên tới 4.950 đồng/kg so với mức giá
3.000 đồng/kg cùng kỳ năm trước.
Mức giá trung bình ở các chợ đầu
mối là giá cho loại chè được coi là bình thường. Còn thương lái thu mua ở mỗi
vùng chè đặc sản, lại có những mức giá cao hơn nhiều. Chè Tân Cương vẫn đứng đầu
bảng với mức giá dao động 120 – 160 nghìn đồng/kg, thậm chí 400 – 450 nghìn
đồng/kg chè móc câu. Tiếp đó, những vùng chè nổi tiếng khác như chè Trại Cài
(huyện Đồng Hỷ), chè La Bằng (huyện Đại Từ) được bán với giá 70 – 120 nghìn
đồng/kg. Đó là mức giá thương lái nhập vào, còn khi đến tay người tiêu dùng chè
ngon có thể bị đội giá lên gấp đôi.
An toàn hơn, được giá hơn
Mức giá khác nhau giữa những vùng
chè đặc sản là chuyện bình thường. Vài vụ chè gần đây, ngay trong một vùng chè
cũng có sự chênh lệch giá cả rõ rệt bởi phương thức canh tác, chăm sóc chè khác
nhau giữa các hộ nông dân. Ông Phùng Ngọc Đạt ở xã Minh Lập, huyện Đồng Hỷ cho
biết: “Mặt bằng giá chung của chè trong xã khoảng 60 – 70 nghìn đồng/kg, nhưng
chè của HTX Hương Trà cao hơn hẳn với 90 – 120 nghìn đồng/kg. Đó là vì họ đảm
bảo các điều kiện về sản xuất chè an toàn đã được Sở NNPTNT chứng nhận”.
Bà Lê Thị Thu Thủy, trưởng xóm
làng nghề chè Thác Dài dẫn chứng hiệu quả kể từ khi áp dụng quy trình sản xuất
chè an toàn: “Ngày trước chúng tôi chăm sóc chè vô tội vạ, vào đến đầu làng đã
ngửi thấy mùi thuốc trừ sâu sặc lên rồi. Nhưng kể từ khi được tập huấn sản xuất
chè an toàn, chúng tôi tiết kiệm được 1/3 chi phí, chất lượng tăng, giá bán cũng
tăng hơn 30%”.
Nhưng đó chỉ là bước đi đầu tiên
để chè Thái Nguyên tiếp tục khẳng định và nâng cao chất lượng. Theo Sở NNPTNT,
trên địa bàn toàn tỉnh mới có ba nơi đăng ký sản xuất chè theo quy trình
VietGAP. Để triển khai quy trình VietGAP trên địa bàn rộng không phải vấn đề đơn
giản, dù cả người trồng chè, người tiêu thụ đều muốn sản xuất theo quy trình đó.
Bởi sản xuất chè nhỏ lẻ vẫn chiếm đa số nên khó kiểm định được nguồn nguyên
liệu, đánh giá chất lượng chè.
Hiệu quả của quy trình sản xuất
chè an toàn đã và đang được chứng minh. Thái Nguyên cần sớm quy hoạch được vùng
sản xuất chè theo quy trình VietGAP, cấp giấy chứng nhận để khẳng định thương
hiệu và chất lượng chè của mình.