Nhưng
thực ra, cố nhân Nguyễn Hữu Kim (1832 – 1901), với chức danh Bá Hộ xưa
cũng chỉ tương đương với trưởng phường hiện nay; đã nổi tiếng vì dám
đứng ra tổ chức chôn cất cho cụ Hoàng Diệu, quan Tổng đốc tuẫn tiết vì
thất bại, trong thời kỳ kháng Pháp đầu tiên (1882). Lúc đó, một số quan
lại cao cấp kế cận Hoàng Diệu, đều bỏ trốn hoặc đầu hàng, làm tay sai
cho Pháp. Không ai dám đứng ra mai táng cho cụ Hoàng Diệu. Trong khi đó
ông Kim đã cùng dân góp tiền mua áo quan, làm lễ đưa mộ cụ Hoàng Diệu về
gần miếu Trung Liệt, rồi sau di ra dinh quan Đốc học. Việc làm này
chứng tỏ ông Kim, một thương nhân giầu có, đã thể hiện lòng dũng cảm và
thương xót một người anh hùng đã hy sinh anh dũng vì đất nước.
Mặc
dù có thời, ông Kim còn được phong là Tri phủ Thường Tín, rồi thương
biện phủ Hoài Đức, nhưng lại bị Pháp nghi kỵ, cách chức và quản thúc,
chỉ vì có cô con gái lại tham gia phong trào chống Pháp. Người con gái
của ông tên là Khuê, sau này trở thành nguyên mẫu trong tiểu thuyết
“Bóng nước Hồ Gươm” của Chu Thiên, một cuốn sách mô tả phong trào chống
giặc Pháp xâm lược hết sức quyết liệt của người Hà Nội. Thêm nữa, cháu
nội của ông là liệt sĩ Nguyễn Ngọc Vũ (1908 – 1932), từng là Bí thư
Thành uỷ chính thức đầu tiên của đảng bộ Hà Nội ( đảng Cộng sản Đông
Dương lúc đó) và đã hy sinh trong Hoả Lò, năm 1932.
Có
lần bác sĩ Nguyễn Thìn, một bác sĩ đầu ngành sản khoa viện C Hà Nội,
cháu năm đời của ông Kim đã cho xem gia phả, càng thấy rõ 5 người con
trai và 3 con gái của ông Kim đều được giáo dục và trưởng thành, trong
một gia đình có nền nếp, luôn hướng tới làm những việc thiện, vì dân vì
nước. Vậy nên việc xây Tháp Rùa của ông Kim, khi ấy với ý nghĩa “hậu
chẩm” cho chùa Báo Ân xưa, ở vị trí nhà Bưu điện trung tâm ngày nay,
cũng có cái lý nhất định. Nhưng dù sao, ông cũng là người đã xây nên
ngôi tháp này trên đảo rùa, với bốn tầng, mang dấu ấn như một sự hoà
trộn giữa hai màu sắc kiến trúc, phương Tây và Á đông, cũng là một sự lạ
vào thời đoạn 1884-1887. Tên ông luôn được gắn với những câu chuyện về
Tháp Rùa và được mọi người nhớ đến, như thành tựu của một doanh nghiệp,
đối với Hà Nội cũng bởi lẽ đó.
Dấu
tích còn lại về ông hiện còn được lưu giữ tại số nhà 29 phố Hai Bà
Trưng, là dinh cơ cũ và là nhà thờ đại tôn của họ Nguyễn, theo gia phả
năm đời thuộc gia đình ông.
Tuy
vậy, có thể nói ngày đó Tháp Rùa quả là một công trình có ý nghĩa công
đức cho cộng đồng và trở thành một cái tên sớm được nhắc đến cho bất cứ
ai lần đầu tiên đến Hà Nội. Xưa các tao nhân mặc khách đã hoạ thơ:
“Hồ Gươm soi bóng Tháp Rùa
Ánh đèn soi tỏ mái chùa Ngọc Sơn
Đài nghiên, Tháp Bút chưa mòn…”
Lẽ dĩ nhiên từ đó Tháp Rùa gắn bó với đền Ngọc Sơn tạo nên cảnh quan hài hoà, và trở thành điểm nhấn cho Hồ Gươm.
Nghe
nói, trước đây có một con đường nhỏ đi bộ từ bờ hồ ra đảo Rùa được, vì
xưa nơi này từng là nơi câu cá giải trí của vua quan triều Lê. Có người
tò mò rằng, ai là người thiết kế một kiểu kiến trúc “tân cổ giao duyên”
như vậy, bản vẽ gốc giờ ở đâu, hay chỉ là ông Kim tự nghĩ ra rồi thuê
thợ làm theo ý mình. Bởi lẽ hai tầng dưới làm theo kiểu Tây, còn hai
tầng trên lại theo phong vị của đền chùa cổ Việt. Chả thế thời đó, ngay
trên một số báo Pháp còn gọi Tháp Rùa là ngôi đền nhỏ, hay chỉ là chùa
được xây trên nền một ngôi đền nhỏ trước đó. Bởi nó chỉ cao 8,8m, với
diện tích khoảng 28,51m2, chiếm tỉ lệ khiêm tốn trên gần một sào diện
tích đảo Rùa. Chính vì lẽ đó, với độ cao chỉ vừa đủ làm một bệ tượng mà
có chuyện một kỹ sư người Pháp là Daurelle quyết định Tháp Rùa phải đội
bức tượng Thần tự do Mỹ?.
Đó
là chuyện có thật. Nhưng nói chính xác chỉ là một phiên bản nhỏ, mẫu
của tượng thần tự do, trước khi người Pháp xây tặng cho nước Mỹ. Đây là
phiên bản thứ hai, tượng Thần tự do bằng đồng, cao 2,85 m được Pháp đem
sang Việt Nam trưng bày trong một cuộc triển lãm, tại Hội chợ Đấu Xảo,
(nay là Cung Văn hoá Hữu nghị Việt Xô), năm 1887. Sau đó tượng được tặng
lại cho Hà Nội và được đặt ở vườn hoa Chí Linh. Nhưng đến năm 1890,
Chính phủ Bảo hộ muốn lấy chỗ đó đặt tượng Pôn Be, Thống sứ đầu tiên bị
chết tại Hà Nội, trước đó mấy năm, nên tượng Thần tự do được dinh ra đặt
trên nóc Tháp Rùa, mặt quay về phía vườn hoa Chí Linh. Theo một tài
liệu, qua báo chí thời đó, thì Tháp Rùa phải đội tượng Thần tự do này
trong 6 năm, từ 1891 đến 1896.
Rồi
không hiểu vì lý do gì mà tượng Thần tự do được chuyển về đặt ở vườn
hoa Cửa Nam. Đến trước thời kỳ Cách mạng tháng 8 nổ ra pho tượng này đã
bị giật đổ cùng với một số tượng khác ở Hà Nội, theo lệnh ký ngày
31-7-1945 của Thị trưởng Hà Nội Trần Văn Lai lúc đó. Nhưng thật khó ngờ
vì một biểu tượng nổi tiếng của nước Mỹ, một công trình nghệ thuật tuyệt
đẹp lại có một phiên bản duy nhất được trưng bày ở nước ta trong một
thời gian dài chừng hơn nửa thế kỷ. Đến nay số phận bức tượng đồng Thần
tự do đó ra sao cũng không còn dấu tích nữa.
Từ lâu hình ảnh Hồ Gươm và Tháp Rùa được soi bóng trong văn, thơ, hoạ nhạc,
như một biểu tượng lung linh cho Hà Nội. Tháp Rùa sống với tâm trí cộng
đồng, gắn bó về tình cảm, như một sự chia sẻ hay bầy tỏ thân thiết với
những người con thủ đô. Thật khó ai có thể quên hình ảnh Tháp Rùa trong
tranh Phố của cố danh hoạ Bùi Xuân phái, với tà áo dài bên Hồ Gươm, xa
xa nghiêng bóng Tháp Rùa, trong nắng sớm. Và, ai cũng có thể nhớ đến bản
tráng ca “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi, hoặc “Nhớ Về Hà Nội” của
Hoàng Hiệp, cũng như “Gửi người em gái miền Nam” của Đoàn Chuẩn-Từ Linh…
Tất cả đều gắn bó với hình ảnh Tháp Rùa, với những câu ca giầu cảm xúc
như: “Chạnh lòng tôi nhớ tới người em. Em tháp Rùa yêu dấu…” hay “Hà Nôi
đẹp sao! Ôi nước Hồ Gươm xanh thắm lòng. Bóng Tháp Rùa thân mật ấm
lòng…” và “Ôi! Nhớ Hồ Gươm xanh thắm. Nơi Tháp Rùa nghiêng soi bóng…”
Chuyện
quanh tháp Rùa ngỡ như chỉ gắn liền với huyền thoại hay những lời bàn
mang yêu tố tâm linh làm tăng màu sắc của rêu phong một thuở. Nhưng ít
ai ngờ, trong sử sách về cách mạng của thủ đô ngàn năm văn hiến, còn ghi
lại câu chuyện xảy ra vào đúng ngày sinh nhật Bác Hồ ngày nào. Có thể
coi đây là một câu chuyện mới nhất, về lá cờ của một chiến sĩ đã bí
mật treo trên đỉnh Tháp Rùa, ngay trong lòng địch, đúng vào ngày sinh
nhật Bác Hồ, 19-5-1948. Chuyện xảy ra hơn 60 năm, nhưng người thanh niên
quả cảm, một chiến sĩ công an đã hy sinh anh dũng đến nay mới được xác
nhận là liệt sĩ, quả là một thiệt thòi không nhỏ.
…Sáng
hôm đó, chiến sĩ Nguyễn Trọng Quang, mới 18 tuổi đã cùng đồng đội bơi
ra Tháp Rùa để treo là cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cao nhất. Sự kiện này làm
chấn động đời sống người dân Hà Nội. Từ ngày giặc Pháp chiếm Hà Nội,
đây là sự kiện đầu tiên, lá cờ cách mạng tung bay làm náo nức lòng
người, như một bằng chứng hùng hồn về sự hiện diện của cách mạng ở ngay
giữa lòng địch, thể hiện tinh thần quật khởi của người dân thủ đô, làm
kẻ địch hoảng loạn.
Sau
đó ít ngày chiến sĩ Quang bị địch bắt giam tại Hoả Lò. Tại đây, anh đã
vẽ lá cờ đỏ sao vàng và viết khẩu hiệu “Hồ Chủ Tịch muôn năm” lên tường.
Ông Đông, người bị bắt cùng với anh Quang kể thêm, ngay hôm sau bọn
giặc bắt tất cả đi tra tấn và tìm cho ra người vẽ. Lúc đó, anh Quang đã
khảng khái đứng ra nhận và bị chúng đưa đi biệt giam với tội danh đặc
biệt nguy hiểm. Đến ngày 12-6 năm đó, chiến sĩ Nguyễn Trọng Quang đã bị
chúng bắn chết…
Chiến
công của liệt sĩ Nguyễn Trọng Quang đã được xác nhận, nhưng thật khó
khăn, khi đồng đội không biết địa chỉ gia đình ở đâu để làm thủ tục công
nhận liệt sĩ. Sau này, với sự giúp đỡ của phóng viên báo Công An Nhân
Dân cúng các đồng đội cũ của liệt sĩ Nguyễn Trọng Quang đã tìm được thân
nhân của gia đình ông ở 12 Bát Đàn, Hà Nội.
Vậy là, sáng 10-4-2009, sau 61 năm, bằng Tổ quốc ghi công mới được trao cho gia đình liệt
sĩ Nguyễn Trọng Quang. Có thể nói đây là câu chuyện duy nhất có ý
nghĩa, gắn với Tháp Rùa trong câu chuyện trăm năm, soi bóng trên truyền
thuyết lịch sử hoàn kiếm của vua Lê.
Trở
lại với hiện thực khi hơn trăm năm trôi qua, giờ đây Tháp Rùa đã trở
thành một biểu tượng trong lòng người với nhiều cảm xúc thân thương.
Nhưng thật ra gọi Tháp Rùa là di tích loại gì cũng khó xác định, cả về
hai khía cạnh lịch sử và văn hoá, mặc dù nó đã là một địa chỉ trong
khuôn viên du lịch thủ đô. Nhìn tổng thể, tháp lại là một công trình
kiến trúc xấu, lai tạp, vậy thiết nghĩ, có thể cải tạo, nâng cấp cho đẹp
hơn, giống như nhiều di tích đã từng làm.
Vả
lại trên thực tế, Tháp Rùa cũng đã từng vài ba lần, dỡ nóc để đặt
tượng, trong 6 năm trời, hoặc tróc vỏ, trát vữa, quét vôi đến trơ trụi
như hiện nay. Hơn nữa cái chuyện những người thợ xây đã bí mật ném hài
cốt của song thân ông Bá Kim ngày xưa cũng chỉ là truyền miệng, không
thể kiểm chứng. Biết đâu mọi chuyện ngược lại. Vậy việc thiết kế, làm
lại móng, nâng cấp cho Tháp Rùa xứng đáng là một kiến trúc có giá trị
văn hoá và bền vững, của thủ đô thiết nghĩ cũng là chuyện cần thiết./.
• Theo PLVN