HTML clipboard
Kế thừa truyền thống và
phát huy ý nghĩa to lớn của ngày chiến thắng, trong suốt 35 năm qua, với
trọng trách được giao, ngành Lao động-Thương binh và Xã hội cùng với các Bộ,
ngành, các địa phương và nhân dân cả nước đã cùng nhau chung sức, chung lòng
từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế,
chăm lo tốt đời sống người có công và bảo đảm an sinh xã hội. Đặc biệt, trong 10
năm gần đây, ngành đã tham mưu xây dựng và thực hiện tương đối đầy đủ một hệ
thống chính sách về lao động, người có công và xã hội và đã đạt được những kết
quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực:
Về công tác
lao động-việc làm và dạy nghề: Với việc ra đời Bộ luật Lao động, Luật Dạy
nghề, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng cùng hệ thống văn bản hướng dẫn đã góp phần giải phóng sức
sản xuất và sức lao động, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh. Hàng năm, cả
nước đã tạo việc làm cho khoảng 1,5 triệu người và đưa hàng chục nghìn lao động
đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; quan hệ lao động hình thành và phát triển theo
hướng ổn định, hài hòa lợi ích giữa các bên; chính sách tiền lương từng
bước đổi mới theo định hướng thị trường; điều kiện làm việc của người lao
động ngày càng tốt hơn.
Dạy nghề đã
được phục hồi và có bước phát triển mạnh, từng bước đáp ứng yêu cầu nhân lực cho
phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, góp
phần tăng trưởng kinh tế và phát triển con người. Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát
triển rộng khắp với 3 cấp trình độ đào tạo, quy mô dạy nghề tăng nhanh, chuyển
mạnh từ dạy nghề ngắn hạn sang dạy nghề dài hạn (trung cấp nghề và cao đẳng
nghề). Ngành nghề đào tạo đã từng bước điều chỉnh theo nhu cầu của thị trường
lao động; các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề được tăng cường nên chất
lượng và hiệu quả dạy nghề dần được nâng cao.
Trong lĩnh
vực người có công, phát huy truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, Bộ
Lao động-Thương binh và Xã hội đã tham mưu xây dựng và ban hành Pháp lệnh ưu đãi
Người có công với cách mạng là văn bản pháp lý cao nhất, quy định các chính sách
ưu đãi của Nhà nước đối với người có công... Cùng với hàng loạt văn bản pháp
quy đã kịp thời sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ và những vấn đề nảy
sinh từ cuộc sống, phù hợp với tình hình phát triển của kinh tế xã hội, ban hành
nhiều chính sách, chế độ mới hướng tới bảo đảm công bằng trong việc thực hiện ưu
đãi đối với người có công; đồng thời giải quyết tốt các vấn đề còn tồn đọng.
Nhiều chính sách hỗ trợ khác cũng được ban hành và thực hiện như chính sách ưu
đãi về nhà ở, chính sách ưu đãi trong giáo dục đào tạo; chăm sóc sức khỏe, ưu
tiên vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm để hỗ trợ các cơ sở sản xuất
kinh doanh của thương, bệnh binh và người có công, tạo điều kiện cho con em họ
có việc làm, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống...
Bên cạnh đó,
phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” đã huy động được sức mạnh của toàn xã hội trong
công tác chăm sóc người có công với cách mạng. Hàng ngàn việc làm tốt đẹp đã nảy
nở từ thôn bản, làng xã, đường phố không những tạo nên sức mạnh vật chất và tinh
thần to lớn chăm sóc người có công mà còn góp phần vào công cuộc đổi mới, làm
giàu, xóa đói, giảm nghèo trong đời sống của các gia đình chính sách. Nhờ đó,
người có công đã được chăm sóc tốt hơn về vật chất và tinh thần, được tôn vinh;
đời sống ổn định và từng bước được cải thiện, đến nay gần 90% hộ gia đình người
có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình dân cư nơi cư trú.
Hệ thống an
sinh xã hội từng bước được hoàn thiện, chất lượng cung cấp dịch vụ được
nâng cao. Nhiều chính sách giảm nghèo mới được ban hành, đặc biệt là việc thực
hịên Nghị quyết 30ª của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61
huyện nghèo (nay là 62 huyện), đã mang lại những kết quả tích cực, góp phần giảm
nhanh hộ nghèo, chống tái nghèo, giảm khoảng cách chênh lệch giữa các vùng và
các tầng lớp dân cư.
Bên cạnh đó,
số đối tượng được tiếp cận và hưởng lợi từ chính sách an sinh xã hội ngày càng
mở rộng. Đến nay có trên 9,1 triệu người tham gia BHXH bắt buộc, 53,3 triệu
người tham gia BHYT, hơn 80% đối tượng thuộc diện trợ giúp xã hội được hưởng trợ
cấp xã hội của Nhà nước và của cộng đồng nên đời sống dần được ổn định và hòa
nhập tốt hơn vào cộng đồng.
Các lĩnh vực
xã hội khác như bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phòng, chống tệ nạn xã hội, bình đẳng
giới tiếp tục được quan tâm và coi trọng. Các quyền và môi trường sống của trẻ
em được thực hiện tốt hơn; từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho các em; giảm tỷ lệ tử vong cho trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi, tăng tỷ lệ
trẻ em đến trường và được phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt được quan tâm, chăm sóc và hòa nhập cộng đồng. Tỷ lệ phụ
nữ tham gia hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tăng, đã làm giảm và
xóa bỏ dần khoảng cách giới, đưa chỉ số khoảng cách giới của Việt Nam đứng ở vị
trí thứ 68 trong số 130 nước. Tệ nạn xã hội, nhất là nghiện ma túy, mại dâm từng
bước được kiềm chế, hạn chế được mức độ hoạt động công khai, các tụ điểm nóng,
phức tạp. Công tác chữa trị, giáo dục, phục hồi, dạy nghề, tạo việc làm và hòa
nhập cộng đồng cho đối tượng được đẩy mạnh và thu nhiều kết quả.
Những
thành tựu to lớn trên đây đã góp phần không nhỏ vào thành tích chung của cả nước
trong suốt 35 năm qua, đưa nước ta từng bước phát triển, hội nhập với khu vực và
thế giới. Tuy nhiên, mặc dù chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả của nó vẫn còn
rất nặng nề. Vẫn còn hàng trăm nghìn thân nhân liệt sỹ chưa tìm được mộ của
người thân; hàng chục nghìn mộ liệt sỹ chưa được quy tập, cất bốc. Các nạn nhân
chất độc da cam dioxin vẫn còn chịu rất nhiều thiệt thòi và đang bền bỉ đấu
tranh đòi công lý. Thêm vào đó là hàng trăm nghìn người đã chết hoặc bị thương
do hậu quả của bom mìn còn tồn sót sau chiến tranh. Cả nước vẫn còn khoảng
800 nghìn tấn bom, mìn tồn sót,
làm ô nhiễm trên 20% diện tích đất đai toàn quốc, đặc
biệt là ở các tỉnh miền Trung và sẽ phải mất rất nhiều năm mới có thể khắc phục
được.
Phát huy tinh
thần chiến thắng 30/4, tiếp tục đền đáp công lao của các thế hệ đã cống hiến, hy
sinh để giành độc lập, thống nhất đất nước, nhiệm vụ đặt ra cho ngành Lao động –
Thương binh và Xã hội là rất nặng nề. Mục tiêu đặt ra cho ngành trong thời gian
tới là phải tạo được bước phát triển mới về các lĩnh vực lao động, người có công
và xã hội; tập trung giải quyết tốt những vấn đề bức xúc về việc làm, dạy nghề,
tạo thu nhập, nâng cao mức sống; chăm sóc người có công; giảm nghèo bền vững;
ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội; góp phần tăng trưởng kinh tế, giữ vững
ổn định chính trị và bảo đảm an sinh xã hội. Để thực hiện tốt các mục tiêu nêu
trên, toàn ngành đang tập trung thực hiện những giải pháp cơ bản sau đây:
Một là,
tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động: Xây dựng Luật Tiền lương tối
thiểu, Luật Việc làm, Bộ luật Lao động sửa đổi. Xây dựng và thực hiện có hiệu
quả chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, chương trình xuất khẩu lao động,
chương trình bảo hộ lao động- an toàn và vệ sinh lao động theo kế hoạch 5 năm
(2010-2015) và chiến lược 10 năm (2010 – 2020) tới. Tiếp tục tạo việc làm bền
vững đi đôi với nâng cao chất lượng việc làm (cả trong nước và xuất khẩu lao
động). Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập; phát triển thị trường lao động đồng đều giữa các
vùng và gắn kết cung – cầu lao động; tăng lao động làm công ăn lương, phát
triển hệ thống thông tin, phân tích và dự báo thị trường lao động, hệ thống giao
dịch việc làm; áp dụng công nghệ thông tin hiện đại và nối mạng quốc gia; thực
hiện nguyên tắc phân phối tiền lương và thu nhập công bằng, phản ánh quan hệ
cung – cầu lao động và được xác định thông qua cơ chế thương lượng, thỏa thuận
giữa các bên trong quan hệ lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định
và tiến bộ trên cơ sở thực hiện cơ chế thỏa thuận giữa các bên, giảm thiểu đình
công và tranh chấp lao động; bảo đảm cho người lao động được làm việc trong môi
trường an toàn và vệ sinh, giảm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Hai là,
tập trung mọi nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực, tạo bước đột phá về day
nghề gắn với nhu cầu của xã hội. Đổi mới và phát triển dạy nghề theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và theo định hướng cầu của thị
trường lao động; mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng dạy nghề, chuyển mạnh dạy
nghề từ trình độ thấp sang trình độ cao; đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo, bảo
đảm cơ cấu ngành nghề phù hợp yêu cầu của nền kinh tế, nhất là ngành nghề, kỹ
năng mới, ngành nghề mũi nhọn, trọng điểm; phát triển mạnh dạy nghề trong các
doanh nghiệp và gắn với doanh nghiệp; thiết lập hệ thống kết nối giữa hướng
nghiệp, dạy nghề, thông tin, tư vấn, giới thiệu việc làm và doanh nghiệp. Triển
khai có hiệu quả Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2010-2020.
Ba là,
thực hiện tốt chính sách đối với người có công. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
chính sách ưu đãi; tăng cường kiểm tra, kiên quyết xử lý những trường hợp vi
phạm. Tập trung giải quyết dứt điểm những vấn đề tồn đọng; tiếp tục tiến hành
việc khảo sát, tìm kiếm, phát hiện, quy tập hài cốt liệt sĩ. Tập trung nguồn lực
giúp đỡ các gia đình chính sách còn khó khăn, cải thiện cuộc sống, phấn đấu 100%
hộ gia đình chính sách có mức sống bằng và cao hơn mức trung bình của xã hội.
Bốn là,
tiếp tục giảm nghèo bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo; bảo đảm an
sinh xã hội cho dân cư nông thôn. Tạo điều kiện cho người nghèo nâng cao năng
lực thông qua dạy nghề, hướng dẫn cách làm ăn, tiếp cận các nguồn lực để tạo
việc làm, đa dạng hóa sinh kế và tăng thu nhập; tạo cơ hội cho người nghèo tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Thực hiện tốt Nghị quyết 30ª của Chính phủ về
giảm nghèo nhanh và bền vững ở 62 huyện nghèo .
Năm là,
thực hiện tốt chính sách BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, tiến tới bảo hiểm xã hội
cho mọi người lao động.
Sáu
là, ổn định và từng bước cải thiện đời sống các đối tượng trợ giúp xã hội,
tạo điều kiện và cơ hội cho họ hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng; ưu tiên, khuyến
khích và tạo cơ hội cho các đối tượng yếu thế tiếp cận nguồn lực kinh tế, nỗ lực
vươn lên hòa nhập cộng đồng; đa dạng hóa các loại hình trợ giúp và cứu trợ
xã hội, chuyển mạnh sang cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận và chăm sóc đối tượng dựa vào cộng đồng. Thực hiện tốt Đề án phát
triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020. Phối hợp với các cơ quan liên
quan xây dựng và thực hiện tốt Chương trình hành động rà
phá bom mìn; hỗ trợ các nạn nhân bị bom mìn khắc phục khó khăn trong cuộc sống
và huy động các nguồn lực trong nước và quốc tế chung tay khắc phục hậu quả bom
mìn.
Bảy
là, tăng cường bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Tập trung nguồn lực bảo vệ và chăm
sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhất là phòng ngừa và giải quyết tình trạng
trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, trẻ em lao động sớm, trẻ em
khuyết tật và trẻ em nhiễm HIV; ưu tiên hỗ trợ bảo vệ và chăm sóc trẻ em vùng
nông thôn nghèo và vùng sâu, vùng xa; phát triển mạnh hệ thống dịch vụ hỗ trợ
bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
Tám
là, bảo đảm bình đẳng giới trong mọi
phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; giảm khoảng cách giới và xóa
bỏ định kiến về giới.
Chín
là, tiếp tục kiềm chế, tiến tới đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Nâng cao hiệu
quả công tác chữa trị, giáo dục, dạy nghề và tạo việc làm, tái hòa nhập cộng
đồng các đối tượng nghiện ma túy và mại dâm; tăng cường quản lý Nhà nước trên
từng địa bàn để phát hiện, nắm chắc và quản lý chặt các đối tượng.
Nguyễn Thị
Kim Ngân
Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng
Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội