Ưu tiên tái cơ cấu thị trường tài chính và đầu tư
Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 3, chiều 21/5, Quốc hội đã nghe Tờ trình và báo
cáo ý kiến về Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế; Tờ trình đề nghị Quốc hội
phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2010, Báo cáo thẩm tra quyết toán
ngân sách nhà nước năm 2010; Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về việc tiếp tục đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Báo cáo của Chính phủ
và báo cáo thẩm tra của Quốc hội về việc bổ sung 4 dự án vào Danh mục các dự án,
công trình được phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2011-2015, 5 dự án
thành phần thuộc tuyến đường ven biển Ninh Thuận và 4 tiểu dự án do Bộ giao
thông-vận tải quản lý và Tờ trình về dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh của Quốc hội năm 2013, cũng được trình bày trong chiều nay.
Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế do Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư Bùi
Quang Vinh trình bày khẳng định việc tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Hội nghị
lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI đã trở nên cần thiết và cấp bách.
Tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030 nhằm hướng đến
mục tiêu tổng quát và bốn mục tiêu thành phần.
Mục tiêu tổng quát của tái cơ cấu kinh tế đến năm 2020 là: nâng cao hiệu quả
sử dụng các nguồn lực xã hội, nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế; từ đó, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn, có
năng lực cạnh tranh cao hơn và có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn; tạo tiền đề đưa
nền kinh tế đạt trình độ phát triển cao hơn, vào năm 2030.
Bốn mục tiêu thành
phần của tái cơ cấu kinh tế bao gồm: góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý,
ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội; thiết lập phát
triển cân đối hợp lý giữa các địa phương, vùng miền trên cả nước; cải thiện,
nâng cấp trình độ phát triển các ngành và toàn bộ nền kinh tế, trong đó, các
ngành sử dụng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao từng bước trở thành ngành
kinh tế chủ lực của nền kinh tế; góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
củng cố vị thế quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh cho rằng trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện
nay, tái cơ cấu kinh tế bao gồm hai nội dung chủ yếu: tái cơ cấu ưu tiên trước
mắt và tái cơ cấu trọng tâm, lâu dài. Về ưu tiên trước mắt, trong 5 năm tới ưu
tiên tái cơ cấu thị trường tài chính, tái cơ cấu đầu tư và tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước.
Tái cơ cấu thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ
thống các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính, trước hết là để loại bỏ
nguy cơ mất an toàn đối với hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói
chung; đồng thời, tạo điều kiện để hệ thống tài chính phát triển bền vững và
thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng trung gian tài chính và chuyển tải tác
động của chính sách tiền tệ đến khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình; làm tiền đề
thúc đẩy tái cơ cấu trên các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Trong giai đoạn
2011-2015, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, tập trung lành mạnh hóa
tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động, hiệu lực quản trị, cải thiện
mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng; nâng cao trật tự,
kỷ cương của quản lý nhà nước và đảm bảo nguyên tắc thị trường trong hoạt động
ngân hàng.
Tái cơ cấu đầu tư sẽ tập trung vào đổi mới căn bản cơ chế và cách thức huy
động, phân bố, quản lý và sử dụng vốn đầu tư xã hội theo định hướng huy động hợp
lý tổng đầu tư xã hội, đồng thời bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; duy
trì tỷ trọng hợp lý đầu tư công trong tổng đầu tư xã hội đi đôi với tăng cường
huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác và cải thiện hiệu quả đầu
tư; xác định cụ thể lĩnh vực ưu tiên đầu tư của nhà nước; trước hết, tập trung
vào các lĩnh vực, công trình quan trọng, công ích không có khả năng thu hồi vốn
mà tư nhân không đầu tư hoặc không được đầu tư và đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc đặc biệt khó khăn; mở rộng phạm vi
và cơ hội cho đầu tư tư nhân, nhất là tư nhân trong nước...
Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước, cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước không cần
nắm giữ 100% sở hữu; thoái vốn ở các doanh nghiệp Nhà nước không cần nắm giữ cổ
phần chi phối; đổi mới, phát triển và áp dụng khung quản trị hiện đại theo thông
lệ quốc tế đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Về lâu dài, Chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 đã xác định trọng tâm của tái cơ cấu kinh tế
là “cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng, thúc đẩy cơ cấu
lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội
địa, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và
của cả nền kinh tế.”
Đề án kiến nghị 12 nhóm giải pháp tái cơ cấu kinh tế. Thẩm tra của Ủy ban
Kinh tế do Chủ nhiệm Nguyễn Văn Giàu trình bày đồng tình với các mục tiêu của đề
án, song cho rằng các nhóm giải pháp chưa có sự gắn kết với nhau, cũng
như chưa thực sự đồng bộ giữa các Đề án tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực
và thiếu các giải pháp đối với vấn đề xã hội, môi trường. Đa số ý kiến đề
nghị bổ sung một số giải pháp về mặt xã hội và bảo vệ môi trường để
đảm bảo phát triển kinh tế bền vững. Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị Chính
phủ lượng hóa giải pháp được tính toán bằng kết quả như một “bài toán” nhằm làm
rõ tính khả thi và đề án cũng có tính thuyết phục hơn.
Bội chi ngân sách bằng 5,5% GDP
Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 777.283 tỷ đồng, tổng số chi cân
đối là 850.874 tỷ đồng, bội chi 109.191 tỷ đồng, bằng 5,5% GDP (không bao gồm
kết dư ngân sách địa phương 35.600 tỷ đồng) là những nội dung chủ yếu của quyết
toán ngân sách nhà nước năm 2010 được Chính phủ trình Quốc hội xem xét, phê
chuẩn tại kỳ họp này.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ, Quốc hội cho
phép mức bội chi ngân sách nhà nước năm 2010 là 119.700 tỷ đồng, bằng 6,2% GDP,
quyết toán số bội chi 109.191 tỷ đồng, bằng 5,5% GDP, giảm 0,7% GDP (10.509 tỷ
đồng) là nhờ có tăng thu ngân sách nhà nước. Nguồn bù đắp bội chi ngân sách từ
vay trong nước là 68.967 tỷ đồng; vay ngoài nước 40.224 tỷ đồng. Tính đến
31/12/2010, dư nợ Chính phủ bằng 44,6% GDP, dư nợ ngoài nước của quốc gia bằng
42,2% GDP; trong giới hạn đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Cho rằng báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2010 của Chính phủ đủ điều
kiện để trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn tại kỳ họp thứ 3, song Ủy ban Tài
chính - Ngân sách cũng chỉ ra một số tồn tại trong việc thu, chi ngân sách. Thu
ngân sách vượt 27,5% dự toán, sau khi loại trừ yếu tố tích cực, yếu tố của sự
biến động giá cả tăng cao, tỷ giá hối đoái thay đổi thì vẫn bộc lộ chất
lượng công tác lập dự toán chưa cao, chưa tích cực, công tác dự báo thu chưa sát
thực tế. Bên cạnh nguyên nhân khách quan như sự bất cập trong quy định của pháp
luật về lập và giao dự toán thì không ít địa phương đã xây dựng dự toán thu ngân
sách không tích cực để hưởng chế độ thưởng vượt thu, giảm số điều tiết về ngân
sách trung ương hoặc tăng số bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương cho ngân
sách địa phương.
Trong năm 2010, tình trạng khai man, trốn thuế diễn ra khá phổ biến, thất thu
thuế còn nhiều, hầu hết các đơn vị được kiểm toán, thanh tra đều kê khai chưa
đầy đủ các khoản phải nộp ngân sách mà chủ yếu là thuế thu nhập doanh nghiệp và
thuế giá trị gia tăng. Đặc biệt, tình trạng lỗ giả, lãi thật, trốn thuế thu nhập
doanh nghiệp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua hình thức
chuyển giá chưa được xử lý có hiệu quả, còn nhiều lúng túng. Tình trạng trốn
thuế thu nhập doanh nghiệp của các tập đoàn, tổng công ty thông qua chuyển giá
giữa công ty mẹ và các công ty con, trốn thuế thu nhập doanh nghiệp của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn diễn ra ở các mức độ khác nhau. Thu từ tài nguyên
thất thoát khá nghiêm trọng.
Công tác quản lý chi ngân sách năm 2010 cũng còn một số tồn tại như việc giao
dự toán, chấp hành dự toán chi ngân sách ở một số bộ, ngành, địa phương còn chưa
tuân thủ Nghị quyết của Quốc hội và quy định của Luật ngân sách nhà nước, chi
đầu tư xây dựng cơ bản còn thất thoát, lãng phí, đầu tư dàn trải, nhiều công
trình dở dang, thời gian thi công kéo dài, hiệu quả không cao, sai phạm trong
quản lý đầu tư xây dựng vẫn nhiều và khắc phục chậm, nợ đọng khối lượng xây dựng
cơ bản lớn; chi cho chương trình mục tiêu quốc gia hiệu quả chưa cao; chi chuyển
nguồn và kết dư ngân sách địa phương lớn, làm giảm hiệu quả sử dụng ngân sách.
Cũng trong buổi chiều, Quốc hội đã nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra của Quốc
hội về việc tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc
hội; Báo cáo của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Quốc hội về việc bổ sung 4 dự
án vào Danh mục các dự án, công trình được phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ giai
đoạn 2011- 2015, 5 dự án thành phần thuộc tuyến đường ven biển Ninh Thuận và 4
tiểu dự án do Bộ giao thông-vận tải quản lý và Tờ trình về dự kiến Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2013.
Về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị
Quốc hội bổ sung 3 dự án luật, điều chỉnh tiến độ 5 dự án luật khác trong Chương
trình năm 2012. Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh năm 2013 gồm 30 dự án luật, 3 dự án pháp lệnh trong Chương trình chính
thức và 18 dự án luật trong Chương trình chuẩn bị; bổ sung 3 dự án luật và điều
chỉnh tiến độ 5 dự án luật khác trong Chương trình năm 2012; bổ sung 3 dự án
luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa
XIII./.
• Theo TTXVN