Thủy sản xuất khẩu của Việt Nam
đã có mặt tại gần 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, trong đó có
những thị trường quan trọng như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và Nga.
Tuy vậy, ngành thủy sản bộc lộ
nhiều yếu tố rủi ro, bất cập và không bền vững. Nghề khai thác biển hằng năm bị
thiệt hại về người, phương tiện khai thác do thiên tai gây ra. Cơ sở hạ tầng kỹ
thuật nghề cá chưa được đầu tư tương xứng với nhu cầu phát triển, nhất là hạ
tầng thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản, hệ thống cảng cá, bến cá, chợ thủy
sản đầu mối, khu neo đậu tránh trú bão...
Mục tiêu của Chiến lược phát
triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020 là ngành thủy sản cơ bản được công nghiệp
hóa - hiện đại hóa và tiếp tục phát triển toàn diện theo hướng bền vững, thành
một ngành sản xuất hàng hóa lớn, có cơ cấu và các hình thức tổ chức sản xuất hợp
lý, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, có thương hiệu uy tín, có khả năng cạnh
tranh cao và hội nhập vững chắc vào kinh tế thế giới. Ðồng thời từng bước nâng
cao trình độ dân trí, đời sống vật chất và tinh thần của ngư dân, gắn với bảo vệ
môi trường sinh thái và quốc phòng, an ninh vùng biển, đảo của Tổ quốc; kinh tế
thủy sản đóng góp 30-35% GDP trong khối nông - lâm - ngư nghiệp, tốc độ tăng giá
trị sản xuất ngành thủy sản từ 8-10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 8 - 9
tỷ USD. Tổng sản lượng thủy sản đạt 6,5-7,0 triệu tấn, trong đó nuôi trồng chiếm
65-70% tổng sản lượng; tạo việc làm cho năm triệu lao động nghề cá có thu nhập
bình quân đầu người cao gấp ba lần so với hiện nay; hơn 40% tổng số lao động
nghề cá qua đào tạo. Xây dựng các làng cá ven biển, hải đảo thành các cộng đồng
dân cư giàu truyền thống tương thân, tương ái, có đời sống văn hóa tinh thần đậm
đà bản sắc riêng.
Ðể thực hiện mục tiêu trên, chiến
lược đã nêu cụ thể 10 chương trình, đề án và dự án phải thực hiện với kinh phí
dự kiến khoảng hơn 57 nghìn tỷ đồng được huy động từ các nguồn vốn. Trong thực
tế, những năm gần đây, kinh phí đầu tư cho ngành thủy sản chiếm tỷ trọng rất
thấp trong cơ cấu đầu tư, cho nên nhiều chương trình, dự án đã được triển khai
nhưng không thực hiện được mục tiêu đề ra. Thí dụ ngày 15-3-2010, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 346/QÐ-TTg phê duyệt quy hoạch hệ thống cảng cá,
bến cá đến năm 2020 với tổng nhu cầu đầu tư khoảng 8.000 tỷ đồng. Trong khi đó,
mức đầu tư hằng năm cho ngành thủy sản chỉ trên dưới 100 tỷ đồng.
Thiết nghĩ, để thực hiện Chiến
lược phát triển thủy sản và Nghị quyết T.Ư về Chiến lược Biển đến năm 2020 thì
một trong các giải pháp quan trọng là tăng mức đầu tư cho ngành thủy sản. Trước
mắt, nên sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ để xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ
hậu cần nghề cá, để vừa thực hiện chương trình và mục tiêu của Chiến lược phòng
tránh và giảm nhẹ thiên tai, đồng thời phù hợp với nguyện vọng của hàng triệu
lao động nghề cá trên biển.